logo
  • TRANG CHỦ
  • GIỚI THIỆU
  • THƯ VIỆN ẢNH
  • TIN TỨC
  • FAQ
  • LIÊN HỆ
logo
  • Tháng 6 3, 2025
  • 0 Comments
  • By SETY CAMP

THANH NIÊN XANH: KHƠI DẬY TƯ DUY, KIẾN TẠO TƯƠNG LAI BỀN VỮNG

Tư duy xanh (green thinking) là một hệ thống nhận thức và đạo đức toàn diện, vượt xa khỏi sự quan tâm môi trường bề nổi để định hình một cách tiếp cận nền tảng cho sự tương tác bền vững và có trách nhiệm giữa con người và thế giới tự nhiên (Sterling, 2003). Đây không chỉ là việc nhận diện các vấn đề sinh thái cấp bách, mà còn là một sự chuyển dịch căn bản trong thế giới quan, đòi hỏi con người phải thấu hiểu tính phức tạp, sự tương thuộc của các hệ thống tự nhiên và xã hội, đồng thời đề cao trách nhiệm cá nhân và tập thể trong việc kiến tạo các giải pháp mang tính hệ thống và dài hạn.

Cốt lõi của tư duy xanh bao gồm việc áp dụng tư duy hệ thống (systems thinking) để nhận diện các mối liên kết và vòng phản hồi trong các vấn đề môi trường (Meadows, 2008), phát triển năng lực hiểu biết sinh thái (eco-literacy) để đọc hiểu các quy luật vận hành của tự nhiên (Orr, 2004), và cam kết với nguyên tắc phòng ngừa trong mọi quyết sách có khả năng tác động đến môi trường. Tư duy này cũng hàm chứa sự chuyển sang một cách nhìn cân bằng hơn, tôn trọng giá trị nội tại của tự nhiên và quyền của các thế hệ tương lai được hưởng một môi trường sống trong lành (Naess & Rothenberg, 1989).

Tư duy xanh
(Nguồn: Akevergreen, https://akevergreen.com/V2/2018/11/26/why-should-inventors-think-green/)

Sự cấp thiết của việc hình thành và lan tỏa tư duy xanh trở nên không thể phủ nhận trong bối cảnh nhân loại đang đối mặt với hàng loạt cuộc khủng hoảng sinh thái đa tầng, biến đổi khí hậu,…, đang đe dọa sự ổn định của các hệ thống tự nhiên và xã hội trên toàn cầu. Chúng ta không chỉ đang đi chậm so với các mục tiêu đề ra, mà còn đang đối mặt với những cú sốc khí hậu ngày càng nghiêm trọng, cùng với các bất ổn địa chính trị có nguy cơ làm thụt lùi những thành quả đã đạt được trong suốt thập kỷ qua (Mohammed, 2025)

Tổng bí thư Tô Lâm phát biểu tại Hội nghị Thượng đỉnh Đối tác vì tăng trưởng xanh và
mục tiêu toàn cầu 2030 (P4G) Việt Nam năm 2025
Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Sự cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, ô nhiễm môi trường đất, nước, không khí và sự gia tăng lượng rác thải, đặc biệt là rác thải nhựa, càng làm trầm trọng thêm bức tranh tổng thể, phản ánh một mô hình phát triển thiếu bền vững. Những cuộc khủng hoảng này không phải là ngẫu nhiên mà là hệ quả tất yếu của một lối tư duy và hành động ưu tiên tăng trưởng kinh tế ngắn hạn, khai thác tài nguyên quá mức và ngoại hóa các chi phí môi trường. Chính trong bối cảnh này, tư duy xanh là động lực cốt yếu cho quá trình chuyển đổi sinh thái bền vững.

Chuyển đổi sinh thái bền vững không chỉ đơn thuần là các biện pháp kỹ thuật hay chính sách riêng lẻ, mà là một sự tái cấu trúc sâu rộng các hệ thống sản xuất, tiêu dùng, quản trị và cả các giá trị văn hóa, nhằm hướng tới một xã hội công bằng, thịnh vượng và vận hành trong giới hạn chịu đựng của hành tinh (Sievers-Glotzbach & Tschersich, 2019). Tư duy xanh chính là chất xúc tác cho sự chuyển đổi này bằng cách:

Thứ nhất, thay đổi hệ giá trị và thế giới quan, chuyển từ việc coi tự nhiên như một nguồn tài nguyên vô tận để khai thác sang nhìn nhận con người là một phần hữu cơ của tự nhiên, phụ thuộc và có trách nhiệm với tự nhiên. Sống xanh bắt đầu từ tư duy xanh, tác động và làm thay đổi hành vi của con người, đặc biệt là trong quan điểm tiêu dùng. Chẳng hạn, khi mua sắm, hãy ưu tiên lựa chọn các sản phẩm có chứng nhận bền vững, như hàng tiêu dùng mang nhãn “sinh thái” hoặc “tái chế”, thực hành “4T” (từ chối, tiết giảm, tái sử dụng, tái chế, phân loại rác thải tại nguồn gồm: rác hữu cơ, rác vô cơ, chất thải nguy hại (pin hỏng, acquy, đèn huỳnh quang…). Bên cạnh đó, tiêu dùng tối giản – chỉ mua sắm những thứ cần thiết – giúp giảm thiểu rác thải và tiết kiệm tài nguyên, là một phần của lối sống xanh mà chúng ta có thể áp dụng.

Từ tư duy xanh góp phần chuyển đổi từ kinh tế tuyến tính sang kinh tế tuần hoàn
(Nguồn: VIDS, https://thuonghieuvimoitruong.vn/xu-huong-tu-tu-duy-xanh-den-net-zero-hanh-trinh-song-xanh-ben-vung/)

Thứ hai, tư duy xanh định hướng việc xây dựng và thực thi các chính sách công hiệu quả, thúc đẩy việc nội hóa chi phí môi trường, đầu tư vào cơ sở hạ tầng xanh, bảo vệ và phục hồi vốn tự nhiên, đồng thời khuyến khích các mô hình kinh tế tuần hoàn, nơi mà chất thải của một quá trình trở thành đầu vào cho một quá trình khác (Geissdoerfer et al., 2017).

Thứ ba, nó khơi nguồn cho những đổi mới sáng tạo về công nghệ, quy trình và mô hình kinh doanh, từ năng lượng tái tạo, nông nghiệp sinh thái, đến các giải pháp dựa vào thiên nhiên và thiết kế sản phẩm theo nguyên lý “từ cái nôi đến cái nôi” (cradle-to-cradle), nhằm tối ưu hóa việc sử dụng tài nguyên. (McDonough & Braungart, 2002).

 Thứ tư, tư duy xanh trao quyền và thúc đẩy hành động của mỗi cá nhân và cộng đồng, từ việc áp dụng lối sống bền vững, tham gia vào các hoạt động bảo tồn, đến việc cất lên tiếng nói yêu cầu sự thay đổi từ các nhà hoạch định chính sách và doanh nghiệp.

Sự biểu hiện của tư duy xanh trong thực tiễn chuyển đổi sinh thái bền vững rất đa dạng và có thể được quan sát ở nhiều cấp độ. Trong lĩnh vực kinh doanh, các doanh nghiệp ngày càng nhận thức được rằng phát triển bền vững không chỉ là trách nhiệm xã hội (CSR) mà còn là một lợi thế cạnh tranh, dẫn đến sự ra đời của các chiến lược kinh doanh tích hợp các yếu tố môi trường, xã hội và quản trị (ESG), xây dựng chuỗi cung ứng xanh và phát triển các sản phẩm, dịch vụ thân thiện với môi trường. Trong quy hoạch đô thị, tư duy xanh thúc đẩy các mô hình thành phố bền vững với không gian xanh được ưu tiên, hệ thống giao thông công cộng hiệu quả, các tòa nhà tiết kiệm năng lượng và quản lý chất thải tiên tiến. Giáo dục đóng vai trò then chốt trong việc ươm mầm tư duy xanh từ sớm, thông qua việc lồng ghép các nội dung về sinh thái, biến đổi khí hậu và phát triển bền vững vào chương trình giảng dạy ở mọi cấp học, nhằm trang bị cho thế hệ tương lai kiến thức, kỹ năng và thái độ cần thiết để kiến tạo một tương lai bền vững (Orr, 2004; Sterling, 2003). Ở cấp độ cá nhân, tư duy xanh thể hiện qua những lựa chọn tiêu dùng có ý thức, giảm thiểu rác thải, tiết kiệm năng lượng, ủng hộ các sản phẩm địa phương và hữu cơ, cũng như tham gia tích cực vào các hoạt động cộng đồng vì môi trường.

Mặc dù vậy, việc phổ biến và áp dụng rộng rãi tư duy xanh vẫn đối mặt với nhiều thách thức đáng kể. Các mô hình kinh tế – xã hội truyền thống, vốn được xây dựng dựa trên nền tảng khai thác tài nguyên và tăng trưởng vô hạn, tạo ra sức ì lớn cản trở sự thay đổi (Jackson, 2017). Chủ nghĩa tiêu dùng, được thúc đẩy bởi quảng cáo và áp lực xã hội, cũng góp phần duy trì các thói quen sản xuất và tiêu dùng thiếu bền vững. Bên cạnh đó, việc giáo dục về môi trường chưa đủ sâu rộng và sự phân mảnh trong các nỗ lực chính sách chínhn là những trở ngại. Do đó, việc nuôi dưỡng và phát triển tư duy xanh là một quá trình liên tục, đòi hỏi sự cam kết mạnh mẽ và các giải pháp đồng bộ từ nhiều phía: từ việc cải cách hệ thống giáo dục, tăng cường truyền thông nâng cao nhận thức, xây dựng các chính sách khuyến khích và chế tài hợp lý, đến việc thúc đẩy đối thoại xã hội và tạo dựng các không gian cho sự hợp tác và đổi mới sáng tạo vì mục tiêu chuyển đổi sinh thái bền vững. Chỉ khi tư duy xanh trở thành một dòng chảy chủ đạo trong nhận thức và hành động của toàn xã hội, quá trình chuyển đổi sang một tương lai công bằng, thịnh vượng và hài hòa với tự nhiên mới có thể thành hiện thực.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Capra, F. (1996). The web of life: A new scientific understanding of living systems. Anchor Books. https://www.scirp.org/reference/referencespapers?referenceid=1457861
  2. Geissdoerfer, M., Savaget, P., Bocken, N. M. P., & Hultink, E. J. (2017). The Circular Economy – A new sustainability paradigm? Journal of Cleaner Production, 143, 757–768. https://doi.org/10.1016/j.jclepro.2016.12.048
  3. Jackson, T. (2017). Prosperity without growth: Foundations for the economy of tomorrow. Routledge.
  4. McDonough, W., & Braungart, M. (2002). Cradle to cradle: Remaking the way we make things. North Point Press.
  5. Meadows, D. H. (2008). Thinking in systems: A primer. Chelsea Green Publishing.
  6. Naess, A., & Rothenberg, D. (1989). Ecology, community and lifestyle: Outline of an ecosophy. Cambridge University Press.
  7. Orr, D. W. (2004). Earth in mind: On education, environment, and the human prospect (Rev. ed.). Island Press.
  8. Sievers-Glotzbach, S., & Tschersich, J. (2019). Social-ecological transformation. GAIA – Ecological Perspectives for Science and Society, 28(3), 328–333. https://doi.org/10.14512/gaia.28.3.13
  9. Sterling, S. (2003). Sustainable education: Re-visioning learning and change. Green Books.

English below:

GREEN THINKING: THE ORIGIN OF THE SUSTAINABLE DEVELOPMENT JOURNEY

Green thinking is a comprehensive cognitive and ethical system that goes beyond superficial environmental concerns to shape a fundamental approach to sustainable and responsible interactions between humans and the natural world (Sterling, 2003). It is not just about identifying urgent ecological problems, but also a fundamental shift in worldview, requiring people to understand the complexity and interdependence of natural and social systems, and to promote individual and collective responsibility for creating long-term, systemic solutions.

Green thinking at its core involves applying systems thinking to identify the interconnections and feedback loops in environmental problems (Meadows, 2008), developing eco-literacy to understand how nature works (Orr, 2004), and committing to the precautionary principle in all decisions that have the potential to impact the environment. It also involves a shift to a more balanced view that respects the intrinsic value of nature and the right of future generations to a healthy environment (Naess & Rothenberg, 1989).

Think Green
(Link: Akevergreen, https://akevergreen.com/V2/2018/11/26/why-should-inventors-think-green/)

The urgency of forming and spreading green thinking becomes undeniable in the context of humanity facing a series of multi-layered ecological crises, climate change, etc., which are threatening the stability of natural and social systems globally. Not only are we behind in our goals, but we are also facing increasingly severe climate shocks, along with geopolitical instability that threaten to reverse the achievements of the past decade (Mohammed, 2025).

General Secretary To Lam speaks at the Partnership for Green Growth and the Global Goals 2030 (P4G) Vietnam Summit in 2025
Picture: VGP/Nhật Bắc

The depletion of natural resources, pollution of soil, water and air, and the increase in waste, especially plastic waste, further aggravate the overall picture, reflecting an unsustainable development model. These crises are not accidental but the inevitable consequence of a way of thinking and acting that prioritizes short-term economic growth, over-exploitation of resources and externalization of environmental costs. It is in this context that green thinking is the essential driving force for a sustainable ecological transition.

The sustainable ecological transition is not simply a matter of individual technical or policy measures, but a profound restructuring of production , consumption, governance, and cultural values, towards a just, prosperous, and sustainable society that operates within the carrying capacity of the planet (Sievers-Glotzbach & Tschersich, 2019). Green thinking is the catalyst for this transformation by:

First , change the value system and worldview, shifting from considering nature as an endless resource to exploit to seeing humans as an organic part of nature, dependent on and responsible for nature. Green living starts with green thinking, influencing and changing human behavior, especially in the perspective of consumption. For example, when shopping, prioritize choosing products with sustainable certification, such as consumer goods labeled “eco” or “recycled” , practice “4T” (refuse, reduce, reuse, recycle ); classify waste at source , including: organic waste, inorganic waste, hazardous waste (broken batteries, accumulators, fluorescent lamps, etc.) . In addition, minimalist consumption – buying only what is necessary – helps reduce waste and save resources, which is part of the green lifestyle that we can apply.

From green thinking to contribute to the transition from linear economy to circular economy
(Link: VIDS, https://thuonghieuvimoitruong.vn/xu-huong-tu-tu-duy-xanh-den-net-zero-hanh-trinh-song-xanh-ben-vung/)

Second , green thinking guides the development and implementation of effective public policies that promote the internalization of environmental costs, investment in green infrastructure, protection and restoration of natural capital, and encouragement of circular economic models, where the waste of one process becomes an input to another (Geissdoerfer et al., 2017).

Third , it fuels innovations in technology, processes, and business models, from renewable energy and agroecology to nature-based solutions and cradle-to-cradle product design, to optimize resource use (McDonough & Braungart, 2002).

Fourth , green thinking empowers and motivates individual and community action, from adopting sustainable lifestyles, engaging in conservation activities, to raising voices to demand change from policymakers and businesses.

The manifestation of green thinking in sustainable ecological transformation practices is diverse and can be observed at many levels. In the business sector, enterprises are increasingly aware that sustainable development is not only a social responsibility (CSR) but also a competitive advantage, leading to the emergence of business strategies that integrate environmental, social and governance (ESG) factors, build green supply chains and develop environmentally friendly products and services. In urban planning, green thinking promotes sustainable city models with prioritized green spaces, efficient public transport systems, energy-efficient buildings and advanced waste management. Education plays a key role in instilling green thinking early, by integrating ecology, climate change and sustainable development into the curriculum at all levels, to equip future generations with the knowledge, skills and attitudes needed to create a sustainable future (Orr, 2004; Sterling, 2003). At the individual level, green thinking is reflected in conscious consumer choices, reducing waste, saving energy, supporting local and organic products, and actively participating in community activities for the environment.

However, the widespread adoption and adoption of green thinking still faces significant challenges. Economic models – Traditional societies, built on the foundation of resource exploitation and unlimited growth, create great inertia that hinders change (Jackson, 2017). Consumerism, fueled by advertising and social pressure, also contributes to maintaining unsustainable production and consumption habits. In addition, insufficient environmental education and fragmentation in policy efforts are obstacles. Therefore, nurturing and developing green thinking is an ongoing process, requiring strong commitment and synchronous solutions from many sides: from reforming the education system, enhancing communication to raise awareness, building appropriate incentive and sanction policies, to promoting social dialogue and creating spaces for cooperation and innovation for the goal of sustainable ecological transition. Only when green thinking becomes a mainstream in the awareness and action of the whole society can the transition to a fair, prosperous and harmonious future with nature become a reality.

REFERENCES

  1. Capra, F. (1996). The web of life: A new scientific understanding of living systems . Anchor Books. https://www.scirp.org/reference/referencespapers?referenceid=1457861
  2. Geissdoerfer, M., Savaget, P., Bocken, N.M.P., & Hultink, E.J. (2017). The Circular Economy – A new sustainability paradigm? Journal of Cleaner Production, 143 , 757–768. https://doi.org/10.1016/j.jclepro.2016.12.048
  3. Jackson, T. (2017). Prosperity without growth: Foundations for the economy of tomorrow . Routledge.
  4. McDonough, W., & Braungart, M. (2002). Cradle to cradle: Remaking the way we make things . North Point Press.
  5. Meadows, D.H. (2008). Thinking in systems: A primer . Chelsea Green Publishing.
  6. Naess, A., & Rothenberg, D. (1989). Ecology, community and lifestyle: Outline of an ecosophy . Cambridge University Press.
  7. Orr, D.W. (2004). Earth in mind: On education, environment, and the human prospect (Rev. ed.). Island Press.
  8. Sievers-Glotzbach, S., & Tschersich, J. (2019). Social-ecological transformation. GAIA – Ecological Perspectives for Science and Society, 28 (3), 328–333. https://doi.org/10.14512/gaia.28.3.13
  9. Sterling, S. (2003). Sustainable education: Re-visioning learning and change . Green Books.

SETY CAMP

  • Share:

Leave A Comment Cancel reply

Awesome Logo

Về chúng tôi

SETY Camp là trại hè khoa học dành cho nữ từ 18-35 tuổi do Viện Chính sách và Quản lý tổ chức, dưới sự tài trợ của Quỹ Rosa-Luxemburg khu vực Đông Nam Á.

Menu

  • TRANG CHỦ
  • GIỚI THIỆU
  • THƯ VIỆN ẢNH
  • TIN TỨC
  • FAQ
  • LIÊN HỆ

Liên hệ

  • P209 nhà D, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, số 336, Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội
  • setycamp2022@gmail.com
  • (+84) 243-558-7547
Awesome Image

© SETY camp. All Rights Reserved 2022

Login

Forgot Password?

Thêm/sửa đường dẫn

Nhập địa chỉ đích

Hoặc liên kết đến nội dung đã tồn tại

    Thiếu từ khóa tìm kiếm. Hiển thị các bài viết mới nhất. Tìm hoặc sử dụng phím mũi tên lên và xuống để chọn một mục.